Trong chuyến đi khảo sát, tìm hiểu thực tế do Khoa Lý luận
chính trị trường Đại học Thương mại tổ chức vào ngày 19 và 20/10/2013, tôi có
điều kiện về thăm quê hương người anh hùng Nguyễn Thái Học. Trong phong trào
yêu nước, giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX trên vũ đài chính
trị nước ta xuất hiện nhiều tên tuổi nổi bật. Một trong số đó là Nguyễn Thái
Học, người đại diện cho khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX.
Tuy thất bại nhưng tên tuổi cùng câu nói của ông - “Không thành công thì cũng
thành nhân” – đã mãi mãi đi vào những trang sử chống ngoại xâm hào hùng của dân
tộc ta.
1. Vài nét tiểu sử danh nhân Nguyễn
Thái Học
Nguyễn Thái Học
sinh năm 1901 tại làng Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc và tử (hi
sinh) vào năm 1930 tại Yên Bái. Ông là “Đảng trưởng” (Chủ tịch) của tổ chức
chính trị - Việt Nam Quốc dân Đảng (gọi tắt là Quốc dân đảng), người lãnh đạo
cuộc khởi nghĩa Yên Bái[1] đầu
năm 1930.
Nguyễn Thái Học
xuất thân trong một gia đình trung nông, từ nhỏ học chữ Hán. Năm 1913, ông theo
học trường sơ học Vĩnh Tường, sau đó trường tiểu học Việt Trì. Trong thời gian
này, ông đã bộc lộ tinh thần yêu nước, tư tưởng chống Pháp. Từ năm 1921, Nguyễn
Thái Học vào học trường Sư phạm Hà Nội. Trong mấy năm học ở đây, nhiều lần ông
công khai phản đối các giáo viên Pháp. Louis Marty (Giám đốc An ninh Đông
Dương) nhận xét về ông: “Nguyễn Thái Học là một học sinh bướng bỉnh, hay cãi
lại thầy giáo”. Trong các năm 1925, 1926, 1927 Nguyễn Thái Học gửi thư cho Toàn
quyền Đông Dương (Varenne) trình bày chương trình cải cách toàn diện xã hội của
mình. Ông cũng viết một số bài báo bày tỏ ý kiến canh tân đất nước trước quốc
dân đồng bào. Nhưng những bức thư không đem lại kết quả, còn các bài báo thì bị
thực dân Pháp kiểm duyệt, ngăn chặn. Thực tế này đã làm tiêu tan ảo tưởng cộng
tác với người Pháp của Nguyễn Thái Học. Từ đây ông đi đến kết luận – chỉ có dùng vũ lực đánh đuổi Pháp ra khỏi
đất nước thì mới có thể giúp ích cho quốc dân đồng bào. Cuối năm 1927,
Nguyễn Thái Học lên Hà Nội, ở trụ sở của Nam Đồng thư xã[2], sau
đó lập nhóm thanh niên yêu nước. Ngày 25/12/1927, ông cùng Phạm Tuấn Tài thành
lập Việt Nam
quốc dân đảng (VNQDĐ) – một chính đảng theo khuynh hướng cách mạng dân chủ tư
sản ở nước ta.
Đầu năm 1930,
Nguyễn Thái Học cùng những người lãnh đạo VNQDĐ đã phát động cuộc khởi nghĩa
Yên Bái, nhưng đã không thành công. Thực dân Pháp ráo riết truy lùng những
người khởi nghĩa và ngày 20/2/1930 chúng bắt được ông ở ấp Cổ Vịt (xã Cộng Hoà,
Chí Linh, Hải Dương). Nguyễn Thái Học bị Hội đồng đề hình[3] tuyên
án tử hình ngày 23/3/1930. Sau đó, ngày 17/6/1930 thực dân Pháp đã đem ông cùng
12 yếu nhân[4] của VNQDĐ đi tử hình ở
pháp trường Yên Bái. Nguyễn Thái Học “về cõi vĩnh hằng” ở tuổi 29. Sử liệu cho
biết, ông là người cuối cùng lên máy chém. Trước khi chết ông vẫn mỉm cười
và ngâm câu thơ Pháp: “Mourir pour sa patrie/ C’est le sort le plus beau/ Le
plus digne… d’envie…» («Chết vì tổ quốc/ Cái chết vinh quang/ Lòng
ta sung sướng/ Trí ta nhẹ nhàng[5]»).
2. Cuộc bạo động vũ trang của Việt Nam quốc dân Đảng
Sau
khi xẩy ra vụ án Bazin[6], thực dân Pháp tăng
cường truy lùng, bắt bớ những người yêu nước, phá vỡ hàng loạt cơ sở của VNQDĐ.
Số phận của VNQDĐ đang đứng bên bờ vực thẳm. Trước tình hình đó, những người
lãnh đạo cho rằng, không thể cứ ngồi im chịu chết mà phải đứng lên sống mái với
quân thù. Ngày 17/9/1929, hội nghị Lạc Đạo (Hải Dương) được triệu tập để bàn về
kế hoạch khởi nghĩa. Hội nghị đã quyết định vào ngày 9/2/1930 nghĩa quân sẽ
đồng loạt nổi dậy ở một số đô thị lớn. Nguyễn Thái Học trực tiếp chỉ đạo cuộc
khởi nghĩa ở ba tỉnh đồng bằng (Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An); còn Nguyễn Khắc
Nhu chịu trách nhiệm cuộc nổi dậy ở ba tỉnh trung du (Sơn Tây, Phú Thọ, Yên
Bái).
Sau
vụ bom nổ (do sơ suất trong chế tạo) và việc Đội Dương phản bội thực dân Pháp
càng nâng cao cảnh giác và tăng cường hoạt động lùng sục, khủng bố. Trước tình
hình đó, Nguyễn Thái Học triệu tập cuộc họp khẩn cấp tại làng Mỹ Xá (Hải Dương,
ngày 26/1/1930) để khẳng định lại chủ trương khởi nghĩa, đồng thời đẩy nhanh
hơn tiến độ chuẩn bị. Trong hội nghị này, ông nói: “Đảng chúng ta có thể tiêu
ma hết lực lượng. Một khi lòng sợ sệt đã chen vào đầu óc quần chúng khiến họ
hết hăng hái, hết tin tưởng thì phong trào cách mạng có thể nguội lạnh như đám
tro tàn, rồi người của Đảng cũng sẽ liên tiếp bị bắt dần, vô tình đã xô đẩy anh
em vào cái chết lạnh lùng mòn mỏi ở các phòng ngục trại giam. Âu là chết đi để thành cái gương phấn đấu
cho người sau nối bước. Không thành công thì cũng thành nhân[7]”.
Căn
cứ vào tình hình cụ thể, Nguyễn Thái Học quyết định lùi thời gian khởi nghĩa
tại ba tỉnh miền xuôi đến ngày 15/2/1930. Còn ở Yên Bái, khởi nghĩa nổ ra theo
kế hoạch vào đêm ngày 9 rạng ngày 10/2/1930. Lực lượng nổi dậy đã chiếm được
hai trại lính, giết một số sĩ quan Pháp, làm chủ một số khu vực trong thị xã,
treo cờ trên các công sở và phát truyền đơn hô hào quần chúng nổi dậy. Song do
không lôi kéo được toàn bộ lính khố xanh và cũng không đủ khả năng làm chủ được
tình hình. Nên sáng ngày 10/2, khi thực dân Pháp tập trung lực lượng (có cả máy
bay yểm trợ) phản công thì cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng thất bại.
Cùng đêm
9/2, tại Phú Thọ, một toán nghĩa quân do Nguyễn Khắc Nhu trực tiếp chỉ huy, đã
kéo đến đánh đồn Hưng Hoá, nhưng không thành công, phải rút lui. Một toán nghĩa
quân khác đã đánh chiếm được phủ Lâm Thao rồi hợp với quân của Nguyễn Khắc Nhu
từ Hưng Hoá đến, tước khí giới của bọn lính khố xanh và đốt các văn kiện của
Pháp ở đây. Khi quân Pháp từ thị xã Phú Thọ kéo tới phản công, quân khởi nghĩa
đã không chống cự nổi. Nguyễn Khắc Nhu bị thương, bị bắt và tự sát. Còn lực
lượng nổi dậy ở Sơn Tây quá yếu nên cũng không đánh chiếm được đồn Thông, Phó
Đức Chính và một số người khác bị bắt. Tại Hà Nội, tối 10/2, VNQDĐ cho người
ném bom vào Ở mật thám, Sở sen đầm, nhà tù Hoả Lò… nhằm gây thanh thế cho cuộc
khởi nghĩa. Nhưng các vụ ném bom này không gây tổn hại cho Pháp, cũng không tạo
được tiếng vang cần thiết.
Gần một
tuần sau, vào đêm 14 rạng ngày 15/2, VNQDĐ nổi dậy ở Phả Lại, Vĩnh Bảo (Hải
Dương), Kiến An và Phụ Dực (Thái Bình). Tại Vĩnh Bảo, Phụ Dực lực lượng nổi dậy
đánh phá huyện đường rồi sau đó giải tán. Riêng ở Kiến An, do kế hoạch bị lộ,
số lính khố đỏ bị Pháp bắt giam và tổ chức canh phòng cẩn mật. Biết không thể
thắng lợi, nghĩa quân nhanh chóng tự giải tán…
Cuộc bạo
động do VNQDĐ khởi xướng chỉ diễn ra trong vòng 1 tuần và nhanh chóng thất bại.
Thất bại bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Xét về mặt chủ quan, VNQDĐ
không có đường lối chính trị đúng đắn và nhất quán; những người lãnh đạo của tổ
chức này cũng không thật sự đoàn kết, nội bộ có mâu thuẫn khiến sức mạnh của
phong trào bị giảm sút đáng kể. Bên cạnh đó về mặt khách quan, chủ nghĩa tư bản
thế giới vẫn đang trong thế ổn định (tạm thời). Bộ máy thống trị của thực dân
Pháp ở Đông Dương còn vững chắc; lực lượng cách mạng chưa được tập hợp, giác
ngộ đầy đủ và cũng chưa sẵn sàng. Phong trào thiếu vắng hai lực lượng tối quan
trọng là công nhân và nông dân; trang bị vũ khí của lực lượng nổi dậy thiếu
thốn, năng lực chỉ huy và tinh thần chiến đấu cũng chưa cao. Trong tình thế bị
động, tổ chức đang tan rã, lực lượng mỏng, lại rải ra ở nhiều nơi, kế hoạch và
ngày giờ khởi nghĩa không nhất quán, thực dân Pháp lại biết trước nên đã có
chuẩn bị đề phòng. Vì thế cuộc bạo động nhanh chóng bị kẻ địch đàn áp, dập tắt.
3. Vai trò của VNQDĐ trong phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX
Các tài
liệu xuất bản ở miền Nam trước năm 1975 có khuynh hướng đánh giá quá cao vai
trò của VNQDĐ: “Sự thất bại của Việt Nam quốc dân đảng trong nhất thời, mà sự
thành công trong vạn thế. Chúng ta sẽ thấy ngay lý do của Việt Nam quốc dân
đảng chiếm được bó hoa danh dự của lịch sử trao cho để tặng thưởng cái công lao
hãn mã ở Yên Bái, trong khi lịch sử chỉ trao cho các đảng phái khác cái phần an
ủi thôi”[8]; “Việt Nam quốc dân đảng
là đảng tiên tiến, có một tổ chức kiện toàn, hoạt động liên tục nhất và có
nhiều thành tích nhất[9]”. Cách nhìn nhận trên xuất phát
từ lập trường của giai cấp tư sản và không phù hợp với thực tế lịch sử.
Giới nghiên
cứu và các chính trị gia miền Bắc nhìn nhận vấn đề này theo quan điểm khác và
mang tính khách quan hơn. Khởi nghĩa Yên Bái được coi là “cuộc bạo động bất đắc
dĩ”; “Cuộc khởi nghĩa Yên Bái tuy thất bại, nhưng nó đã có tác dụng cổ vũ lòng
yêu nước và chí căm thù giặc của nhân dân ta[10]”, v.v…
Nếu đặt “sự
kiện VNQDĐ” trong bối cảnh chung lúc bấy giờ chúng ta sẽ thấy vai trò của VNQDĐ
thể hiện rõ ở ba nội dung sau:
3.1. VNQDĐ đã góp phần tuyên truyền, giác ngộ tư tưởng
yêu nước và ý thức dân tộc cho quần chúng nhân dân
Ngược dòng
lịch sử, ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta (1858), nhân dân ta
liên tiếp đứng lên đấu tranh để bảo vệ nền độc lập dân tộc, nhưng các phong
trào đều thất bại. Bước sang đầu thế kỷ XX, tinh thần yêu nước được tiếp tục
bồi đắp bằng các hoạt động sôi nổi trong các phong trào vận động dân tộc, dân
chủ của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, v.v…
Được nuôi
dưỡng bằng dòng máu anh hùng đó, những lãnh tụ của VNQDĐ đều bắt đầu cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình bằng lòng yêu nước. Về lập trường giai cấp và tư
tưởng chính trị, họ là tín đồ của Chủ nghĩa Tam dân (Tôn Trung Sơn) và tư tưởng
Tự do, Bình đẳng, Bác ái của cách mạng tư sản Pháp. Nhưng ý thức dân tộc, chủ
nghĩa yêu nước cách mạng mới chính là tư tưởng chính trị cốt lõi của họ. Do đó,
cùng với các tổ chức cách mạng khác, VNQDĐ là người kế tục sự nghiệp cứu nước
của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… trên lĩnh vực tuyên truyền, giác ngộ tư
tưởng yêu nước, ý thức dân tộc cho nhân dân. Chỉ trong một thời gian ngắn ngủi
(hơn hai năm tồn tại), VNQDĐ chưa làm được như hai tổ chức Thanh Niên và Tân
Việt là đi sâu tuyên truyền giác ngộ, tập hợp công – nông đứng vào hàng ngũ của
mình, nhưng chí ít nó cũng đã giác ngộ, thức tỉnh được tinh thần yêu nước của
binh lính Việt Nam, tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một số hào phú, địa
chủ - những đối tượng mà hai tổ chức trên còn chưa có điều kiện thu phục và
gieo mầm cách mạng. Chính thông qua hệ thống tổ chức trong các tầng lớp này mà
VNQDĐ đã góp phần tạo dựng cơ sở ban đầu để hình thành một mặt trận dân tộc thống nhất trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung
của dân tộc sau đó.
Mặc dù cuộc
khởi nghĩa đã thất bại, nhưng nó có ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình chính trị
trong nước và quốc tế, làm kinh động cả giới thực dân Pháp. Khởi nghĩa Yên Bái
không chỉ là hành động yêu nước của các chiến sĩ VNQDĐ mà còn trở thành biểu
tượng của tinh thần quật khởi và truyền thống đấu tranh anh dũng chống ngoại
xâm của toàn thể dân tộc Việt Nam.
3.2. VNQDĐ góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển
hoá phong trào giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản
Bằng chính
sự thất bại của mình VNQDĐ đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển hoá
phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Bước sang
thời kỳ cận đại, phong trào đấu tranh chống xâm lược diễn ra trong bối cảnh
hoàn toàn khác trước. Giai cấp phong kiến đã trở thành lực lượng phản động ngăn
cản sự phát triển của xã hội. Lực lượng lãnh đạo dần dần chuyển sang các giai
cấp khác. Đặc biệt, vào những thập niên đầu thế kỷ XX, cùng với những biến đổi
sâu sắc về kinh tế - xã hội và tư tưởng, sự tác động mạnh mẽ của các cuộc cách
mạng tư sản trên thế giới, ở Việt Nam đã xuất hiện khuynh hướng vận động giải
phóng dân tộc theo con đường cách mạng tư sản… Nhưng với thành công của cuộc
cách mạng Tháng Mười Nga (1917), lịch sử nhân loại đã chuyển sang giai đoạn quá
độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới. Trong khi đó, phong trào giải phóng
dân tộc ở Việt Nam vẫn tiếp tục định hướng phát triển trong khuôn khổ của cách
mạng dân chủ tư sản. Trong bối cảnh lịch sử ấy, sự xuất hiện của VNQDĐ đã có
tác dụng thúc đẩy sự chín muồi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ tư sản trong phong
trào dân tộc. Chính vì thế, thất bại của VNQDĐ cũng là sự thất bại của khuynh
hướng cách mạng tư sản, góp phần khẳng định xu thế tất thắng của cách mạng vô
sản trong phong trào dân tộc ở Việt Nam trong thời đại mới: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”
(HCM).
Trong thời
đại mới, đường lối cứu nước của VNQDĐ chứa đựng những yếu tố lỗi thời, không
phản ánh được yêu cầu và xu thế phát triển của lịch sử. Tính chất của thời đại
mới đòi hỏi cách mạng giải phóng dân tộc muốn thành công phải chuyển sang phạm
trù cách mạng vô sản và trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế
giới. Trong điều kiện giai cấp tư sản quốc tế đã trở thành lực lượng phản động
thì quyền lãnh đạo các phong trào dân tộc ở các nước thuộc địa phải thuộc về
giai cấp vô sản và độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH.
Sự thất bại
của VNQDĐ là một tất yếu lịch sử. Nhưng chính sự thất bại này đã góp phần thúc
đẩy nhanh chóng quá trình chuyển biến của phong trào dân tộc từ phạm trù ý thức
hệ tư sản sang phạm trù ý thức hệ vô sản. Từ sau thất bại của khởi nghĩa Yên
Bái, ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng dân tộc đã chuyển hẳn sang tay giai
cấp vô sản, đánh dấu bằng sự kiện ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930,
tạo nên một bước ngoặt căn bản cho cách mạng nước ta.
3.3. VNQDĐ góp phần hun đúc và để lại nhiều bài học thiết
thực cho cách mạng Việt Nam những giai đoạn sau
Bằng những
hoạt động đầy gian lao và anh dũng của mình, VNQDĐ đã góp phần hun đúc và để
lại nhiều bài học kinh nghiệm cho cách mạng Việt Nam những giai đoạn về sau. Đó
là những bài học về giải quyết vấn đề dân
tộc; về con đường bạo lực cách mạng
và khởi nghĩa vũ trang; về xây dựng
một đảng chính trị và về xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng khối đoàn kết
dân tộc…
Tóm lại,
tuy sự nghiệp cứu nước không thành, nhưng VNQDĐ đã để lại cho cách mạng Việt
Nam nhiều bài học kinh nghiệm quý giá, góp phần khẳng định trong thực tế xu thế
phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới – thời đại của
cách mạng vô sản được mở ra từ sau thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga. Với
những cống hiến ấy, VNQDĐ đã đóng vai trò
quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển chín muồi nhanh chóng của cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đó là sự thật lịch sử mà các học giả
nước ngoài cũng phải thừa nhận, còn cố Tổng bí thư Lê Duẩn thì khẳng định:
“Chúng ta không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của tầng lớp tiểu tư sản trong
phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam[11]”.
Riêng với
người anh hùng – người con ưu tú của Vĩnh Phúc - danh nhân Nguyễn Thái Học, tôi
xin mượn lời nhà văn Nguyễn Huy Thiệp (trong một vở kịch) làm câu kết cho bài
viết này: “Nguyễn Thái Học vẫn còn lại
tình yêu trong mỗi chúng ta. Tình yêu thì mãi mãi… không thể mất[12]" và không bao giờ mất!
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá
Thế: Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam
(Tái bản có sửa chữa và bổ sung), Nxb Văn hoá, 1997.
2. Nguyễn Văn Khánh: Việt Nam quốc dân đảng trong lịch sử cách
mạng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005.
3. Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945),
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000.
4. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên),
Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ: Đại
cương lịch sử Việt Nam, Tập II, Nxb Giáo dục, 1998.
5. Lê Duẩn: Giai cấp vô sản với vấn đề nông dân trong
cách mạng Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1965.
6. Uỷ ban khoa học xã hội
Việt Nam: Lịch sử Việt Nam, Tập II,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985.
7. Nguyễn Huy thiệp: “Còn
lại tình yêu”, trong Tuyển tập kịch,
Nxb Trẻ, 2012.
[1] - Thực ra cuộc khởi nghĩa Yên Bái là một hành
động vũ trang do Việt Nam quốc dân Đảng tổ chức, nổ ra ở nhiều địa phương,
nhưng vì Yên Bái là nơi khởi nghĩa đầu tiên, quyết liệt nhất và có tiếng vang
hơn cả nên về sau sự kiện này thường được gọi chung Khởi nghĩa Yên Bái.
[2] - Nam Đồng thư xã là một cơ sơ xuất bản do hai
anh em nhà giáo Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm lập ra, cuối năm 1926, trụ ở số
nhà 129 phố Trúc Bạch, Hà Nội. Trước cách mạng tháng 8-1945, đây là nơi in ấn
những sách báo yêu nước như: “Gương phục quốc”, “Gương thành bại”, “Gương thiếu
niên”, “Trưng nữ vương”… Đây cũng là nơi thu hút, tụ tập của những trí thức,
thanh niên yêu nước hồi đó.
[3] - Hội đồng đề hình được Toàn quyền Đông Dương
(Pasquier) ký Nghị định thành lập để xét xử vụ án VNQDĐ (ngày 14-2-1930).
[4] - Bao gồm: Phó Đức Chính, Bùi Tư Đoàn, Đào Văn
Nhật, Nguyễn Văn Tiềm, Hà Văn Lao, Bùi Văn Chuẩn, Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Văn
A, Bùi Văn Cửu, Nguyễn Như Liên, Ngô Văn Du và Đỗ Văn Tú.
[5] - Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế: Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Tái bản có sửa chữa và bổ
sung), Nxb Văn hoá, 1997, tr. 633.
[7] - Đinh Xuân Lâm (Chủ biên), Nguyễn Văn Khánh,
Nguyễn Đình Lễ: Đại cương lịch sử Việt Nam ,
Tập II, Nxb Giáo dục, 1998, tr. 287.
[8] - Lời tựa sách “Việt Nam
quốc dân Đảng, lịch sử đấu tranh cận đại (1927-1954) của tác giả Hoàng Văn
Đào.
[9] - Dẫn theo Nguyễn Văn Khánh, Việt Nam quốc dân
đảng trong lịch sử cách mạng Việt Nam , Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2005, tr. 178.
[10] - Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam : Lịch
sử Việt Nam ,
Tập II, Nxb Khoa học xã hội, 1985, tr. 251.
[11] - Nguyễn Văn Khánh: Việt Nam quốc dân
Đảng trong lịch sử cách mạng Việt Nam , Nxb Khoa học xã hội, 2005,
tr. 205
[Bài HT Khoa Lý luận chính trị, trường ĐHTM, 2014]
Nhận xét
Đăng nhận xét