Chuyển đến nội dung chính

NGUYỄN THÁI HỌC - NGƯỜI CON ƯU TÚ CỦA VĨNH PHÚC/DÂN TỘC VIỆT NAM

 
          Trong chuyến đi khảo sát, tìm hiểu thực tế do Khoa Lý luận chính trị trường Đại học Thương mại tổ chức vào ngày 19 và 20/10/2013, tôi có điều kiện về thăm quê hương người anh hùng Nguyễn Thái Học. Trong phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX trên vũ đài chính trị nước ta xuất hiện nhiều tên tuổi nổi bật. Một trong số đó là Nguyễn Thái Học, người đại diện cho khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX. Tuy thất bại nhưng tên tuổi cùng câu nói của ông - “Không thành công thì cũng thành nhân” – đã mãi mãi đi vào những trang sử chống ngoại xâm hào hùng của dân tộc ta.
          1. Vài nét tiểu sử danh nhân Nguyễn Thái Học
Nguyễn Thái Học sinh năm 1901 tại làng Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc và tử (hi sinh) vào năm 1930 tại Yên Bái. Ông là “Đảng trưởng” (Chủ tịch) của tổ chức chính trị - Việt Nam Quốc dân Đảng (gọi tắt là Quốc dân đảng), người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái[1] đầu năm 1930.
Nguyễn Thái Học xuất thân trong một gia đình trung nông, từ nhỏ học chữ Hán. Năm 1913, ông theo học trường sơ học Vĩnh Tường, sau đó trường tiểu học Việt Trì. Trong thời gian này, ông đã bộc lộ tinh thần yêu nước, tư tưởng chống Pháp. Từ năm 1921, Nguyễn Thái Học vào học trường Sư phạm Hà Nội. Trong mấy năm học ở đây, nhiều lần ông công khai phản đối các giáo viên Pháp. Louis Marty (Giám đốc An ninh Đông Dương) nhận xét về ông: “Nguyễn Thái Học là một học sinh bướng bỉnh, hay cãi lại thầy giáo”. Trong các năm 1925, 1926, 1927 Nguyễn Thái Học gửi thư cho Toàn quyền Đông Dương (Varenne) trình bày chương trình cải cách toàn diện xã hội của mình. Ông cũng viết một số bài báo bày tỏ ý kiến canh tân đất nước trước quốc dân đồng bào. Nhưng những bức thư không đem lại kết quả, còn các bài báo thì bị thực dân Pháp kiểm duyệt, ngăn chặn. Thực tế này đã làm tiêu tan ảo tưởng cộng tác với người Pháp của Nguyễn Thái Học. Từ đây ông đi đến kết luận – chỉ có dùng vũ lực đánh đuổi Pháp ra khỏi đất nước thì mới có thể giúp ích cho quốc dân đồng bào. Cuối năm 1927, Nguyễn Thái Học lên Hà Nội, ở trụ sở của Nam Đồng thư xã[2], sau đó lập nhóm thanh niên yêu nước. Ngày 25/12/1927, ông cùng Phạm Tuấn Tài thành lập Việt Nam quốc dân đảng (VNQDĐ) – một chính đảng theo khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản ở nước ta.
Đầu năm 1930, Nguyễn Thái Học cùng những người lãnh đạo VNQDĐ đã phát động cuộc khởi nghĩa Yên Bái, nhưng đã không thành công. Thực dân Pháp ráo riết truy lùng những người khởi nghĩa và ngày 20/2/1930 chúng bắt được ông ở ấp Cổ Vịt (xã Cộng Hoà, Chí Linh, Hải Dương). Nguyễn Thái Học bị Hội đồng đề hình[3] tuyên án tử hình ngày 23/3/1930. Sau đó, ngày 17/6/1930 thực dân Pháp đã đem ông cùng 12 yếu nhân[4] của VNQDĐ đi tử hình ở pháp trường Yên Bái. Nguyễn Thái Học “về cõi vĩnh hằng” ở tuổi 29. Sử liệu cho biết, ông là người cuối cùng lên máy chém. Trước khi chết ông vẫn mỉm cười và ngâm câu thơ Pháp: “Mourir pour sa patrie/ C’est le sort le plus beau/ Le plus digne… d’envie…» («Chết vì tổ quốc/ Cái chết vinh quang/ Lòng ta sung sướng/ Trí ta nhẹ nhàng[5]»).
2. Cuộc bạo động vũ trang của Việt Nam quốc dân Đảng
         Sau khi xẩy ra vụ án Bazin[6], thực dân Pháp tăng cường truy lùng, bắt bớ những người yêu nước, phá vỡ hàng loạt cơ sở của VNQDĐ. Số phận của VNQDĐ đang đứng bên bờ vực thẳm. Trước tình hình đó, những người lãnh đạo cho rằng, không thể cứ ngồi im chịu chết mà phải đứng lên sống mái với quân thù. Ngày 17/9/1929, hội nghị Lạc Đạo (Hải Dương) được triệu tập để bàn về kế hoạch khởi nghĩa. Hội nghị đã quyết định vào ngày 9/2/1930 nghĩa quân sẽ đồng loạt nổi dậy ở một số đô thị lớn. Nguyễn Thái Học trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ở ba tỉnh đồng bằng (Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An); còn Nguyễn Khắc Nhu chịu trách nhiệm cuộc nổi dậy ở ba tỉnh trung du (Sơn Tây, Phú Thọ, Yên Bái).
          Sau vụ bom nổ (do sơ suất trong chế tạo) và việc Đội Dương phản bội thực dân Pháp càng nâng cao cảnh giác và tăng cường hoạt động lùng sục, khủng bố. Trước tình hình đó, Nguyễn Thái Học triệu tập cuộc họp khẩn cấp tại làng Mỹ Xá (Hải Dương, ngày 26/1/1930) để khẳng định lại chủ trương khởi nghĩa, đồng thời đẩy nhanh hơn tiến độ chuẩn bị. Trong hội nghị này, ông nói: “Đảng chúng ta có thể tiêu ma hết lực lượng. Một khi lòng sợ sệt đã chen vào đầu óc quần chúng khiến họ hết hăng hái, hết tin tưởng thì phong trào cách mạng có thể nguội lạnh như đám tro tàn, rồi người của Đảng cũng sẽ liên tiếp bị bắt dần, vô tình đã xô đẩy anh em vào cái chết lạnh lùng mòn mỏi ở các phòng ngục trại giam. Âu là chết đi để thành cái gương phấn đấu cho người sau nối bước. Không thành công thì cũng thành nhân[7].
          Căn cứ vào tình hình cụ thể, Nguyễn Thái Học quyết định lùi thời gian khởi nghĩa tại ba tỉnh miền xuôi đến ngày 15/2/1930. Còn ở Yên Bái, khởi nghĩa nổ ra theo kế hoạch vào đêm ngày 9 rạng ngày 10/2/1930. Lực lượng nổi dậy đã chiếm được hai trại lính, giết một số sĩ quan Pháp, làm chủ một số khu vực trong thị xã, treo cờ trên các công sở và phát truyền đơn hô hào quần chúng nổi dậy. Song do không lôi kéo được toàn bộ lính khố xanh và cũng không đủ khả năng làm chủ được tình hình. Nên sáng ngày 10/2, khi thực dân Pháp tập trung lực lượng (có cả máy bay yểm trợ) phản công thì cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng thất bại.
Cùng đêm 9/2, tại Phú Thọ, một toán nghĩa quân do Nguyễn Khắc Nhu trực tiếp chỉ huy, đã kéo đến đánh đồn Hưng Hoá, nhưng không thành công, phải rút lui. Một toán nghĩa quân khác đã đánh chiếm được phủ Lâm Thao rồi hợp với quân của Nguyễn Khắc Nhu từ Hưng Hoá đến, tước khí giới của bọn lính khố xanh và đốt các văn kiện của Pháp ở đây. Khi quân Pháp từ thị xã Phú Thọ kéo tới phản công, quân khởi nghĩa đã không chống cự nổi. Nguyễn Khắc Nhu bị thương, bị bắt và tự sát. Còn lực lượng nổi dậy ở Sơn Tây quá yếu nên cũng không đánh chiếm được đồn Thông, Phó Đức Chính và một số người khác bị bắt. Tại Hà Nội, tối 10/2, VNQDĐ cho người ném bom vào Ở mật thám, Sở sen đầm, nhà tù Hoả Lò… nhằm gây thanh thế cho cuộc khởi nghĩa. Nhưng các vụ ném bom này không gây tổn hại cho Pháp, cũng không tạo được tiếng vang cần thiết.
Gần một tuần sau, vào đêm 14 rạng ngày 15/2, VNQDĐ nổi dậy ở Phả Lại, Vĩnh Bảo (Hải Dương), Kiến An và Phụ Dực (Thái Bình). Tại Vĩnh Bảo, Phụ Dực lực lượng nổi dậy đánh phá huyện đường rồi sau đó giải tán. Riêng ở Kiến An, do kế hoạch bị lộ, số lính khố đỏ bị Pháp bắt giam và tổ chức canh phòng cẩn mật. Biết không thể thắng lợi, nghĩa quân nhanh chóng tự giải tán…
Cuộc bạo động do VNQDĐ khởi xướng chỉ diễn ra trong vòng 1 tuần và nhanh chóng thất bại. Thất bại bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Xét về mặt chủ quan, VNQDĐ không có đường lối chính trị đúng đắn và nhất quán; những người lãnh đạo của tổ chức này cũng không thật sự đoàn kết, nội bộ có mâu thuẫn khiến sức mạnh của phong trào bị giảm sút đáng kể. Bên cạnh đó về mặt khách quan, chủ nghĩa tư bản thế giới vẫn đang trong thế ổn định (tạm thời). Bộ máy thống trị của thực dân Pháp ở Đông Dương còn vững chắc; lực lượng cách mạng chưa được tập hợp, giác ngộ đầy đủ và cũng chưa sẵn sàng. Phong trào thiếu vắng hai lực lượng tối quan trọng là công nhân và nông dân; trang bị vũ khí của lực lượng nổi dậy thiếu thốn, năng lực chỉ huy và tinh thần chiến đấu cũng chưa cao. Trong tình thế bị động, tổ chức đang tan rã, lực lượng mỏng, lại rải ra ở nhiều nơi, kế hoạch và ngày giờ khởi nghĩa không nhất quán, thực dân Pháp lại biết trước nên đã có chuẩn bị đề phòng. Vì thế cuộc bạo động nhanh chóng bị kẻ địch đàn áp, dập tắt.
         3. Vai trò của VNQDĐ trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX
Các tài liệu xuất bản ở miền Nam trước năm 1975 có khuynh hướng đánh giá quá cao vai trò của VNQDĐ: “Sự thất bại của Việt Nam quốc dân đảng trong nhất thời, mà sự thành công trong vạn thế. Chúng ta sẽ thấy ngay lý do của Việt Nam quốc dân đảng chiếm được bó hoa danh dự của lịch sử trao cho để tặng thưởng cái công lao hãn mã ở Yên Bái, trong khi lịch sử chỉ trao cho các đảng phái khác cái phần an ủi thôi”[8]; “Việt Nam quốc dân đảng là đảng tiên tiến, có một tổ chức kiện toàn, hoạt động liên tục nhất và có nhiều thành tích nhất[9]”. Cách nhìn nhận trên xuất phát từ lập trường của giai cấp tư sản và không phù hợp với thực tế lịch sử.  
Giới nghiên cứu và các chính trị gia miền Bắc nhìn nhận vấn đề này theo quan điểm khác và mang tính khách quan hơn. Khởi nghĩa Yên Bái được coi là “cuộc bạo động bất đắc dĩ”; “Cuộc khởi nghĩa Yên Bái tuy thất bại, nhưng nó đã có tác dụng cổ vũ lòng yêu nước và chí căm thù giặc của nhân dân ta[10]”, v.v…
Nếu đặt “sự kiện VNQDĐ” trong bối cảnh chung lúc bấy giờ chúng ta sẽ thấy vai trò của VNQDĐ thể hiện rõ ở ba nội dung sau:
3.1. VNQDĐ đã góp phần tuyên truyền, giác ngộ tư tưởng yêu nước và ý thức dân tộc cho quần chúng nhân dân
Ngược dòng lịch sử, ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta (1858), nhân dân ta liên tiếp đứng lên đấu tranh để bảo vệ nền độc lập dân tộc, nhưng các phong trào đều thất bại. Bước sang đầu thế kỷ XX, tinh thần yêu nước được tiếp tục bồi đắp bằng các hoạt động sôi nổi trong các phong trào vận động dân tộc, dân chủ của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, v.v…
Được nuôi dưỡng bằng dòng máu anh hùng đó, những lãnh tụ của VNQDĐ đều bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng của mình bằng lòng yêu nước. Về lập trường giai cấp và tư tưởng chính trị, họ là tín đồ của Chủ nghĩa Tam dân (Tôn Trung Sơn) và tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái của cách mạng tư sản Pháp. Nhưng ý thức dân tộc, chủ nghĩa yêu nước cách mạng mới chính là tư tưởng chính trị cốt lõi của họ. Do đó, cùng với các tổ chức cách mạng khác, VNQDĐ là người kế tục sự nghiệp cứu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… trên lĩnh vực tuyên truyền, giác ngộ tư tưởng yêu nước, ý thức dân tộc cho nhân dân. Chỉ trong một thời gian ngắn ngủi (hơn hai năm tồn tại), VNQDĐ chưa làm được như hai tổ chức Thanh Niên và Tân Việt là đi sâu tuyên truyền giác ngộ, tập hợp công – nông đứng vào hàng ngũ của mình, nhưng chí ít nó cũng đã giác ngộ, thức tỉnh được tinh thần yêu nước của binh lính Việt Nam, tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một số hào phú, địa chủ - những đối tượng mà hai tổ chức trên còn chưa có điều kiện thu phục và gieo mầm cách mạng. Chính thông qua hệ thống tổ chức trong các tầng lớp này mà VNQDĐ đã góp phần tạo dựng cơ sở ban đầu để hình thành một mặt trận dân tộc thống nhất trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc sau đó.
Mặc dù cuộc khởi nghĩa đã thất bại, nhưng nó có ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình chính trị trong nước và quốc tế, làm kinh động cả giới thực dân Pháp. Khởi nghĩa Yên Bái không chỉ là hành động yêu nước của các chiến sĩ VNQDĐ mà còn trở thành biểu tượng của tinh thần quật khởi và truyền thống đấu tranh anh dũng chống ngoại xâm của toàn thể dân tộc Việt Nam.
3.2. VNQDĐ góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển hoá phong trào giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản
Bằng chính sự thất bại của mình VNQDĐ đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển hoá phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Bước sang thời kỳ cận đại, phong trào đấu tranh chống xâm lược diễn ra trong bối cảnh hoàn toàn khác trước. Giai cấp phong kiến đã trở thành lực lượng phản động ngăn cản sự phát triển của xã hội. Lực lượng lãnh đạo dần dần chuyển sang các giai cấp khác. Đặc biệt, vào những thập niên đầu thế kỷ XX, cùng với những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội và tư tưởng, sự tác động mạnh mẽ của các cuộc cách mạng tư sản trên thế giới, ở Việt Nam đã xuất hiện khuynh hướng vận động giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng tư sản… Nhưng với thành công của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga (1917), lịch sử nhân loại đã chuyển sang giai đoạn quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới. Trong khi đó, phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam vẫn tiếp tục định hướng phát triển trong khuôn khổ của cách mạng dân chủ tư sản. Trong bối cảnh lịch sử ấy, sự xuất hiện của VNQDĐ đã có tác dụng thúc đẩy sự chín muồi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ tư sản trong phong trào dân tộc. Chính vì thế, thất bại của VNQDĐ cũng là sự thất bại của khuynh hướng cách mạng tư sản, góp phần khẳng định xu thế tất thắng của cách mạng vô sản trong phong trào dân tộc ở Việt Nam trong thời đại mới: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (HCM).
Trong thời đại mới, đường lối cứu nước của VNQDĐ chứa đựng những yếu tố lỗi thời, không phản ánh được yêu cầu và xu thế phát triển của lịch sử. Tính chất của thời đại mới đòi hỏi cách mạng giải phóng dân tộc muốn thành công phải chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản và trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Trong điều kiện giai cấp tư sản quốc tế đã trở thành lực lượng phản động thì quyền lãnh đạo các phong trào dân tộc ở các nước thuộc địa phải thuộc về giai cấp vô sản và độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH.
Sự thất bại của VNQDĐ là một tất yếu lịch sử. Nhưng chính sự thất bại này đã góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển biến của phong trào dân tộc từ phạm trù ý thức hệ tư sản sang phạm trù ý thức hệ vô sản. Từ sau thất bại của khởi nghĩa Yên Bái, ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng dân tộc đã chuyển hẳn sang tay giai cấp vô sản, đánh dấu bằng sự kiện ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930, tạo nên một bước ngoặt căn bản cho cách mạng nước ta.
3.3. VNQDĐ góp phần hun đúc và để lại nhiều bài học thiết thực cho cách mạng Việt Nam những giai đoạn sau
Bằng những hoạt động đầy gian lao và anh dũng của mình, VNQDĐ đã góp phần hun đúc và để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho cách mạng Việt Nam những giai đoạn về sau. Đó là những bài học về giải quyết vấn đề dân tộc; về con đường bạo lực cách mạng và khởi nghĩa vũ trang; về xây dựng một đảng chính trị và về xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng khối đoàn kết dân tộc…
Tóm lại, tuy sự nghiệp cứu nước không thành, nhưng VNQDĐ đã để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm quý giá, góp phần khẳng định trong thực tế xu thế phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới – thời đại của cách mạng vô sản được mở ra từ sau thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga. Với những cống hiến ấy, VNQDĐ đã đóng vai trò quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển chín muồi nhanh chóng của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đó là sự thật lịch sử mà các học giả nước ngoài cũng phải thừa nhận, còn cố Tổng bí thư Lê Duẩn thì khẳng định: “Chúng ta không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của tầng lớp tiểu tư sản trong phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam[11]”.
Riêng với người anh hùng – người con ưu tú của Vĩnh Phúc - danh nhân Nguyễn Thái Học, tôi xin mượn lời nhà văn Nguyễn Huy Thiệp (trong một vở kịch) làm câu kết cho bài viết này: “Nguyễn Thái Học vẫn còn lại tình yêu trong mỗi chúng ta. Tình yêu thì mãi mãi… không thể mất[12]" và không bao giờ mất!

Tài liệu tham khảo 
1. Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế: Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Tái bản có sửa chữa và bổ sung), Nxb Văn hoá, 1997.
2. Nguyễn Văn Khánh: Việt Nam quốc dân đảng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005.
3. Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945), Nxb Giáo dục,  Hà Nội, 2000.
4. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ: Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập II, Nxb Giáo dục, 1998.
5. Lê Duẩn: Giai cấp vô sản với vấn đề nông dân trong cách mạng Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1965.
6. Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam: Lịch sử Việt Nam, Tập II, Nxb Khoa học xã hội,  Hà Nội, 1985.
7. Nguyễn Huy thiệp: “Còn lại tình yêu”, trong Tuyển tập kịch, Nxb Trẻ, 2012.



[1] - Thực ra cuộc khởi nghĩa Yên Bái là một hành động vũ trang do Việt Nam quốc dân Đảng tổ chức, nổ ra ở nhiều địa phương, nhưng vì Yên Bái là nơi khởi nghĩa đầu tiên, quyết liệt nhất và có tiếng vang hơn cả nên về sau sự kiện này thường được gọi chung Khởi nghĩa Yên Bái.
[2] - Nam Đồng thư xã là một cơ sơ xuất bản do hai anh em nhà giáo Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm lập ra, cuối năm 1926, trụ ở số nhà 129 phố Trúc Bạch, Hà Nội. Trước cách mạng tháng 8-1945, đây là nơi in ấn những sách báo yêu nước như: “Gương phục quốc”, “Gương thành bại”, “Gương thiếu niên”, “Trưng nữ vương”… Đây cũng là nơi thu hút, tụ tập của những trí thức, thanh niên yêu nước hồi đó.
[3] - Hội đồng đề hình được Toàn quyền Đông Dương (Pasquier) ký Nghị định thành lập để xét xử vụ án VNQDĐ (ngày 14-2-1930).
[4] - Bao gồm: Phó Đức Chính, Bùi Tư Đoàn, Đào Văn Nhật, Nguyễn Văn Tiềm, Hà Văn Lao, Bùi Văn Chuẩn, Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Văn A, Bùi Văn Cửu, Nguyễn Như Liên, Ngô Văn Du và Đỗ Văn Tú.
[5] - Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế: Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Tái bản có sửa chữa và bổ sung), Nxb Văn hoá, 1997, tr. 633.
[6] - Bazin là một trùm mộ phu đồn điền người Pháp, tên này bị VNQDĐ tổ chức ám sát ngày 9/2/1929.
[7] - Đinh Xuân Lâm (Chủ biên), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ: Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập II, Nxb Giáo dục, 1998, tr. 287.
[8] - Lời tựa sách “Việt Nam quốc dân Đảng, lịch sử đấu tranh cận đại (1927-1954) của tác giả Hoàng Văn Đào.
[9] - Dẫn theo Nguyễn Văn Khánh, Việt Nam quốc dân đảng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005, tr. 178.
[10] - Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam: Lịch sử Việt Nam, Tập II, Nxb Khoa học xã hội, 1985, tr. 251.
[11] - Nguyễn Văn Khánh: Việt Nam quốc dân Đảng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 2005, tr. 205
[12] - Nguyễn Huy Thiệp: Tuyển tập kịch, Nxb Trẻ, 2012, tr. 154.
[Bài HT Khoa Lý luận chính trị, trường ĐHTM, 2014]

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

THƠ CHA MẸ GỬI CON

Nếu một mai thấy cha già mẹ yếu Hãy thương yêu và thấu hiểu song thân. Những lúc ăn mẹ thường hay vung vãi Hay tự cha không mặc được áo quần. Hãy nhẫn nại nhớ lại thời thơ ấu Mẹ đã chăm lo tã, áo, bế, bồng. Bón cho con từng miếng ăn, hớp sữa Cho con nằm trong nệm ấm chăn bông. Cũng có lúc con thường hay trách móc Chuyện nhỏ thôi mà mẹ nói trăm lần. Xưa kia bên nôi giờ con sắp ngủ, Chuyện thần tiên mẹ kể mãi không ngưng… Có lúc cha già không muốn tắm Đừng giận cha và la mắng nặng lời. Ngày con nhỏ, con vẫn thường sợ nước Từng van xin “đừng bắt tắm, cha ơi!” Những lúc cha không quen xài máy móc Chỉ cho cha những hướng dẫn ban đầu. Cha đã dạy cho con trăm nghìn thứ Có khi nào cha trách móc con đâu? Một ngày nọ khi mẹ cha lú lẫn Khiến cho con mất hứng thú chuyện trò Nếu không phải là niềm vui đối thoại Xin đến gần và hãy lắng nghe cha. Có những lúc mẹ không buồn cầm đũa Đừng ép thêm già có lúc biếng ăn Con cần biết...

BÃI BIỂN VÀ ẨM THỰC Ở NHẬT LỆ (QUẢNG BÌNH)

                                                                                                                 Chuyến khảo sát thực tế kết hợp với du lịch nghỉ mát hè năm 2014 do Khoa LLCT (TMU) tổ chức đã để lại trong tôi những ấn tượng khó quên về đất và người Quảng Bình. Ở tầm quốc gia, quốc tế thì hai danh thắng nổi tiếng là Phong Nha - Kẻ Bàng và động Thiên Đường (gần đây thêm mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp) là những điểm thu hút khách du lịch bốn phương. Nhưng ở mức khiêm tốn hơn có thể kể đến bãi biển Nhật Lệ cùng nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sư...

“TƯ DUY LƯỠNG HỢP” VỚI SINH VIÊN ĐẠI HỌC [1]

                                                                    BÙI HỒNG VẠN           Nếu chúng ta quan niệm vào học đại học là đã vượt qua một cái “ngưỡng” phổ thông để lên học ở cấp học mới, cao hơn và khác hẳn về chất, về nội dung so với phổ thông thì phương pháp học đại học cũng khác hẳn phổ thông. Bởi người ta vẫn thường nói: “Đối tượng nào, phương pháp ấy”, “Đối tượng chi phối phương pháp”. Do vậy sinh viên vào đại học phải được/tự trang bị một hệ thống phương pháp phù hợp với yêu cầu của cấp học mới.           Bàn đến phương pháp học đại học là cả một vấn đề rộng lớn mà khả năng và điều kiện có hạn của chúng tôi không ...