1.
Nói theo ngôn ngữ Phật giáo thì tựa đề bài viết này nên/phải là “Đức
Phật truyền bá (hay xiển dương) đạo pháp”, nhưng truyền bá cũng tức là
dạy học. Cho nên bài viết giật cái “tít” - “Đức Phật dạy học” cũng
chẳng có gì sai trái. Tuy nhiên câu chuyện Đức Phật dạy học là cả
một đề tài lớn mà trong khuôn khổ một bài báo nhỏ không thể luận
bàn hết được. Vì thế tác giả bài viết này quyết định khuôn vấn đề
lại trong vài khía cạnh thuộc về phương pháp dạy học của Đức Phật
mà thôi.
Nếu ai quan tâm tìm hiểu Đạo Phật đều biết,
Đức Phật vốn là thái tử con vua nước Tịnh Phạn thời cổ ở Ấn Độ.
Khi chưa xuất gia, Ngài sống một cuộc đời sung sướng, đầy đủ trong
nhung lụa, có vợ đẹp con ngoan. Vậy mà vào năm 29 tuổi Ngài quyết chí
từ bỏ tất cả để xuất gia, đi tìm con đường giải thoát cho mình và cho
chúng sinh[1].
Sau 6 năm trải bao khó khăn, gian khổ Thái tử
Tất Đạt Đa (tên Đức Phật thời trẻ) đã đắc Đạo (giác ngộ), thành
Phật. Sau ba lần Phạm Thiên (một vị trời) khẩn cầu, Ngài quyết định vận
bánh xe pháp (Chuyển pháp luân) - truyền bá chân lý mình chứng ngộ
để hướng dẫn chúng sinh trên con đường giải thoát. Theo truyền thuyết,
Đức Phật còn ở lại dưới gốc cây bồ đề 21 ngày nữa để suy ngẫm và hân
hưởng đạo lý mình chứng ngộ. Đây cũng là thời gian Ngài truyền bá Đạo
pháp cho chư Thiên. Sau đó Đức Phật rời gốc Bồ đề bước vào cuộc đời
hoằng pháp của một bậc đạo sư. Năm anh em nhà Kiều Trần Như là những
người được Đức Phật truyền pháp đầu tiên, họ nhanh chóng chứng quả A
la hán[2].
Từ đây, tăng đoàn Phật giáo bắt đầu hình thành và càng ngày càng lớn
mạnh.
2. Tri kiến mà Đức Phật chứng ngộ là vô cùng
lớn, nhưng Ngài chỉ truyền dạy cho chúng sinh một phần nhỏ trong số
đó. Ngài nói: “Này các Tỳ kheo, điều ta biết thì quá nhiều, nhưng
những gì ta dạy cho các ông thì rất ít; song đó là những gì cần
thiết và căn bản cho sự giải thoát. Những gì ta dạy cho các ông? Chính
là “Đây là Khổ”, “Đây là Khổ tập”, “Đây là Khổ diệt”, “Đây là con
đường đưa đến Khổ diệt”[3]”.
Quan điểm của Đức Phật rất rõ, chỉ dạy những gì thiết thực nhất
cho việc giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ, bất như ý. Quan điểm này
tương đồng với quan điểm dạy học của trường pháp thực dụng trong
giáo dục học hiện đại, mà tiêu biểu có thể kể đến là John Dewey[4].
Để giúp chúng sinh tu đạo hướng đến giải
thoát, Đức Phật đã tạo ra và sử dụng 84 ngàn pháp môn. Không biết
con số này xác thực đến đâu? Rất khó xác minh. Ở đây chúng ta chỉ
cần ghi nhớ một điều - Đức Phật đã dùng rất nhiều phương cách để giúp
chúng sinh tu hành đạt thành chính quả. Đức Phật dùng nhiều pháp môn
như vậy là vì chúng sinh đa dạng, có căn tính, trình độ nhận thức
rất khác nhau… Do đó phải dùng nhiều phương pháp cho phù hợp với mỗi
loại đối tượng, song cái đích mà Đức Phật nhắm tới vẫn chỉ có
một, đó là giải thoát: “Này
hỡi Tỳ-Khưu, cũng như nước của đại dương hùng dũng chỉ có một vị là
vị mặn của muối. Giáo pháp chỉ có một vị là vị Giải thoát
(Vimutti)”[5].
Đức Phật truyền bá đạo pháp cho tất cả những
ai muốn theo học và tu hành, không hề có sự phân biệt. Các đệ tử
của Phật có nguồn gốc xuất thân rất phong phú, đa dạng, bao gồm đủ loại
chúng sinh. Chỉ nói riêng về “Nhân”, tức người, cũng đã phong phú rồi:
Vua chúa, thương nhân, nông dân, thợ thủ công, đạo sĩ, sa môn, trộm cướp,
giang hồ, đĩ điếm, v.v… Việc chấp nhận mọi đối tượng để giáo hoá,
cứu vớt rõ ràng là tư tưởng và hành động tiến bộ vượt bậc mà
không một nhà giáo dục, nhà tư tưởng nào thời cổ có trong lịch sử
nhân loại. Cùng thời ở Trung Hoa, Khổng tử cũng có hướng tới đại
chúng, nhưng Ngài không chủ trương thu nạp phụ nữ vào đội ngũ giáo
hoá của mình.
Nội dung Đức Phật dạy là những tri kiến phản
ánh chân thực về vũ trụ, nhân sinh, đồng thời vạch ra con đường giải
thoát đúng đắn cho chúng sinh. Đó là Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Thập
nhị nhân duyên, Vô thường, Vô ngã, Tam vô lậu (Giới, Định, Tuệ)… Đạo
phật là những tri kiến cao siêu, do đó không phải ai cũng có thể dễ
dàng lĩnh hội. Từ thực tế này, Đức Phật đã sáng tạo ra rất nhiều
cách thức, phương pháp, phương tiện (thiện xảo) khác nhau để truyền
bá chánh pháp, hướng tới đạt mục tiêu và hiệu quả.
Thời nay, chúng ta sử dụng rất nhiều cách
thức, phương tiện, kỹ thuật khác nhau và kết hợp chúng với nhau trong
dạy học. Các hình thức - thuyết giảng, nêu vấn đề, đàm thoại, thảo
luận, tự học, tự nghiên cứu trên nền tảng kết hợp sử dụng các loại
máy móc, công nghệ như máy tính, internet, truyền hình, radio, video… được
áp dụng phổ biến. Thời Đức Phật khoa học công nghệ chưa phát triển. Để
truyền bá đạo pháp, Đức Phật và các đệ tử của Ngài chủ yếu dùng
lời nói để dạy học. Thông qua thuyết giảng, đàm thoại… Đức Phật
truyền tải chánh pháp cho các đệ tử, chúng sinh.
Chánh pháp rất cao siêu vi tế, không phải mọi
người đều có thể dễ dàng lĩnh hội. Vì thế, Đức Phật phải tuỳ theo
căn cơ, trình độ và hoàn cảnh cụ thể của chúng sinh để có cách
thức hướng dẫn, dìu dắt họ tiến đến mục tiêu giải thoát. Một trong
những cách thức mà Đức Phật đã làm là phân đối tượng thành 5 loại.
Các tài liệu Phật học gọi là “ngũ thừa giáo”. Theo đó, mỗi loại
trong ngũ thừa được Đức Phật truyền dạy một loại giáo lý phù hợp
với căn cơ, trình độ của đối tượng. Cụ thể là:
1) Với những người có trình độ nhận thức thấp
kém, nông cạn và còn bị nhiều đòi hỏi của dục vọng, tham sân si thì
Đức Phật đem Tứ diệu đế giảng
cho họ. Mục đích là để loại bỏ dần những dục nhiễm và đồng thời khai sáng tâm trí cho họ.
2) Với những người có trình độ kiến thức tương
đối cao (trí thức), Đức Phật thuyết giảng về Lý nhân duyên (thuyết duyên khởi, Thập nhị nhân duyên). Mục
đích là giúp những người này nhận thấy rõ mối tương quan, tương duyên
chặt chẽ trong đời này và đời trước giữa họ với người thân trong gia
đình và với mọi người trong xã hội. Từ sự hiểu biết ngọn nguồn như
thế sẽ giúp họ sống có ý nghĩa, giải quyết mọi việc theo cách tốt
đẹp nhất và xây dựng một xã hội an vui, hạnh phúc.
3) Với những người trong quá khứ đã từng trồng
những căn lành và đã phát huy được trí tuệ vô lậu[6].
Do phước đức như vậy khi tái sinh trên cõi đời này họ có những điều
kiện rất tốt đẹp như thông minh, khoẻ mạnh, có thành tựu rất cao về cả
vật chất, tinh thần, địa vị xã hội và họ có đời sống phạm hạnh
xứng đáng là biểu tượng cho mọi người kính ngưỡng. Đối với những
người này, họ đang tiếp bước trên con đường đạo, Đức Phật sẽ hướng
dẫn họ thực hiện sáu ba la mật (Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh
tấn, Thiền định và Trí tuệ) để tiến tới Niết bàn, thành tựu quả
vị giác.
4) Đối với hàng nhân thừa (những người bình
thường trong xã hội), Đức Phật truyền dạy cho họ nguyên tắc sống theo
Tam quy (quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng), Ngũ giới (Không sát sinh,
Không trộm cắp, Không tà dâm, Không nói dối, Không uống rượu) để họ tu
tập trở thành người tốt trong xã hội.
5) Còn với những người có điều kiện có thể
vươn cao hơn so với vị trí của loài người, tức hàng Chư Thiên thì Đức
Phật dạy họ mười điều lành để trở thành biểu tượng được chúng sinh
tôn kính[7].
Việc phân đệ tử thành 5 loại này cũng giống
như trong giáo dục đào tạo ngày nay khi ta chia học sinh thành các
loại khác nhau, từ đó có phương pháp giáo dục tương ứng với khí
chất, trình độ, khả năng để hoạt động dạy học đạt hiệu quả.
Đức Phật còn dùng cách dạy học mà thời nay dường
như chúng ta không thấy trong các nhà trường hiện đại (trừ hệ thống giáo
dục Phật giáo), đó là không sử dụng
đến ngôn ngữ nói. Trong Truyện cổ Phật giáo có ghi lại mẩu
chuyện:
“Một hôm
lúc đang thuyết pháp trên đỉnh núi Linh Thứu, Đức Phật nói với chúng
sinh rằng, không lâu nữa Ngài sẽ nhập Niết bàn, nếu vị nào muốn hỏi
pháp thì mau nói ra những điều còn khúc mắc trong lòng. Mọi người
ngồi im. Lúc đó, có vị Đại Phạm Thiên vương chủ cõi Ta Bà dâng lên
Đức Phật một bông hoa sen sắc vàng. Sau đó lui lại đảnh lễ và thưa: “Trong
khoảng năm mươi năm từ lúc Đức Thế Tôn thành Phật đến nay, Người đã
thuyết vô vàn giáo lý để khai thị cho chúng sinh, cũng như hoá độ cho
tất cả chúng sinh đủ mọi căn cơ. Nếu như có một đại pháp nào còn
chưa nói, khẩn thỉnh Thế tôn hãy vì chúng con và những hành giả tu
Bồ Tát đạo sau này, hoặc chúng sinh phàm phu muốn tu Phật đạo mà
diễn bày pháp ấy”. Nói xong Đại Phạm Thiên vương hoá thân thành một
toà báu rất trang nghiêm, thỉnh Thế Tôn ngồi lên trên ấy.
Đức Phật
nhận và ngồi lên toà báu ấy mà không nói năng gì, nhưng Ngài đã
hướng về đại chúng và cầm cành hoa sen đưa lên. Lúc đó đại chúng đưa
mắt nhìn nhau mà không hiểu hành động của Như Lai là gì. Duy chỉ có
mỗi trưởng lão Ma ha Ca Diếp hiểu được sự khai thị của Đức Phật, đó
là pháp môn vô thượng, nên ngài đã mỉm miệng cười, rồi sau đó đứng
dậy, chắp tay đứng ngay ngắn và cũng im lặng không nói gì cả. Lúc
này, Đức Thích Ca tuyên thị với đại chúng rằng: “Đúng vậy! Ta có chánh
pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi
diệu, không lập văn tự, truyền ngoài giáo lý, tổng trì nhậm trì,
phàm phu thành Phật, đệ nhất nghĩa đế, nay phó chúc cho ông Ma ha Ca
Diếp[8]”.
Chuyện trên có tên là “Niêm hoa vi tiếu”, rất
nổi tiếng trong Đạo Phật. Những kinh điển, những sách viết về Phật
giáo, nhìn chung rất khó hiểu. Bạn đọc chả nên bận tâm đến những từ
ngữ khó hiểu đó làm gì, chỉ cần lưu ý – câu chuyện trên phản ánh
một kiểu dạy học đặc biệt, mà về sau được các bậc đạo sư, nhất là
các vị theo trường phái Thiền đốn ngộ hay dùng, đó là kiểu dạy học
“tâm truyền tâm” (còn được gọi là “truyền mật và nhận mật”), “không
qua văn tự ngôn ngữ, dĩ tâm truyền tâm”[9].
Theo cách dạy này, người thầy truyền đạt tri kiến của mình một cách
trực tiếp cho học trò không dùng ngôn ngữ nói, song học trò vẫn lĩnh
hội được điều thầy muốn truyền đạt. Trong truyện, mặc dù có rất
đông chúng sinh tham dự, nhưng chỉ có Ma ha Ca Diếp (người đã chứng
được thực tướng) có khả năng hiểu được ý của Đức Phật, Ngài chỉ
mỉm cười, chắp tay đứng yên mà không nói gì…
Trong các bài thuyết giảng, Đức Phật hay dùng
hình thức đặt câu hỏi để khuyến khích đệ tử suy tư, từ đó nhận
thức được nội dung bài học (Socrate, Đức Khổng tử cũng thường làm
như vậy) hoặc bằng cách dẫn dắt để cuối cùng Ngài đưa ra kết luận
của mình. Khi thuyết kinh Vô ngã tướng, Đức Phật liên tiếp đặt ra các
câu hỏi:
- Này các
Tỳ kheo, nếu sắc thân có ngã tướng (vô ngã) thì sắc thân không phải
chịu đau khổ, bệnh hoạn, già nua, hoại diệt. “Thân ta có thể như thế
này, thân ta cũng có thể không phải như thế này”, cả hai trường hợp
đều có thể được. Nhưng vì sắc không có ngã, nên sắc phải chịu đau
khổ, và không thể xác định “Thân ta thế này, thân ta không phải thế
này”. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, thọ, tưởng, hành và thức cũng đều
vô ngã, không có thật thể. Cả năm uẩn đều luôn luôn biến đổi không
ngừng. Vậy, này các Tỳ kheo, các thầy nghĩ thế nào? Thân này là
thường hay vô thường?
- Bạch Đức
Thế Tôn, là vô thường.
- Cái gì vô
thường là hạnh phúc hay đau khổ?
- Bạch Đức
Thế Tôn, là đau khổ.
- Vậy, có
hợp lý chăng, nếu nghĩ đến cái gì vô thường, đau khổ và tạm bợ với
ý tưởng: “Cái này của tôi; cái này là tôi; cái này là bản ngã của
tôi”?
- Bạch Đức
Thế Tôn, chắc chắn là không hợp lý.
- Cũng vậy,
này các Tỳ kheo, thọ, tưởng, hành và thức đều là vô thường và đau
khổ. Có hợp lý chăng, nếu nghĩ rằng những cái vô thường, đau khổ và
tạm bợ đó là “của tôi, chính tôi, bản ngã của tôi”?
- Bạch Đức
Thế Tôn, chắc chắn là không hợp lý.
- Như vậy, này
các Tỳ kheo, đối với tất cả sắc thân, dù ở quá khứ, hiện tại hay
vị lai, dù ở trong hay ở ngoài, thô kệch hay vi tế, thấp hay cao, xa
hay gần, các thầy đều nên nhận thức đúng với thực tế của nó: “Thân
này không phải tôi, thân này không phải là tôi, thân này không phải là
bản thể của tôi. Tất cả thọ, tưởng, hành, thức, dù ở quá khứ,
hiện tại hay vị lai, dù ở trong hay ở ngoài, thô kệch hay vi tế, thấp
hay cao, xa hay gần, các thầy đều nên nhận thức đúng với thực tế của
chúng: Những thứ này không phải của tôi, những thứ này không phải là
tôi, những thứ này không phải là bản thể của tôi. Bậc thánh đệ tử
nhận thức được như vậy sẽ nhàm chán sắc thân, thọ, tưởng, hành,
thức; xa lìa năm uẩn nhơ nhớp, và được giải thoát khỏi mọi ràng
buộc. Vị ấy sẽ tự biết rõ ràng: Ta đã được giải thoát, không còn
tái sinh nữa, đời sống phạm hạnh đã được thành tựu, những điều
phải làm đã làm xong, không còn trở lại trạng thái này nữa”[10].
Đức
Phật cũng thường kể một câu chuyện ngụ ngôn về đạo đức hoặc cùng
tranh luận với đệ tử một cách nhã nhặn, sau đó đưa ra những câu kệ
ngắn gọn mà trong đó Ngài đã đúc kết cô đọng những lời thuyết
giảng để mọi người dễ nhớ. Hình thức dạy học này tỏ ra rất phù hợp,
đắc dụng trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ. Bởi trong thời Đức Phật
tại thế, việc dạy học hoàn toàn truyền khẩu, không có ghi chép gì.
Đức Phật
không bao giờ cưỡng ép trong giáo
dục. Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật khẳng định mục tiêu mà Ngài hiện
hữu trên cuộc đời này là để “khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri
kiến”[11].
Thực hiện sứ mệnh đó, Ngài truyền bá chánh pháp cho chúng sinh với
tâm thế khuyên bảo mọi người nên theo điều thiện, bỏ điều ác, tinh
tấn tu hành theo phật pháp để được giải thoát chứ tuyệt không hề
thúc bách, cưỡng ép đối với bất cứ một ai… Giáo dục theo tinh thần
của Đức Phật là tự giác, tự nguyện và tự do tư tưởng. Điều này
hết sức quan trọng trong giáo dục, không chỉ xưa mà cả ngày nay. Tinh
thần này được nhiều thế hệ hậu sinh chia sẻ. Chẳng hạn như Albert
Einstein: “Giáo dục nhồi nhét tất yếu dẫn tới sự nông cạn và vô văn
hoá. Cần có cách dạy làm sao để học sinh cảm thấy những điều họ
được học là một quà tặng quý giá chứ không phải là một nhiệm vụ
ngán ngẩm”[12].
3. Đức Phật được người ta dùng rất nhiều danh
hiệu để gọi Ngài: Bậc Đại hùng, Đại lực, Đại từ, Đại bi, Đại hỷ,
Đại xả[13]… Từ
góc độ giáo dục, ta có thể gọi Ngài với danh hiệu là bậc Đại sư. Đức Phật là bậc đại sư, một bậc chân sư vĩ đại của nhân
loại. Những cách thức, phương tiện, phương pháp mà Ngài sử dụng để truyền
bá đạo pháp được đề cập vắn tắt trong vài viết là một ít minh
chứng cho nhận định trên.
Giáo lý mà Đức Phật truyền bá cho chúng sinh
có giá trị vô cùng to lớn, đến nỗi khi nói về Đạo Phật, nhà bác
học vĩ đại bậc nhất của nhân loại là Albert Einstein đã phải khẳng
quyết: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của toàn cầu, vượt
lên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát
cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức
đạo lý phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi phương diện trên,
trong cái nhất thể đầy ý nghĩa. Chỉ có đạo Phật đáp ứng đủ các
điều kiện ấy[14]”.
Như phần mở đầu đã nói, nội dung bài viết không
luận về giá trị của Đạo Phật mà chỉ phân tích một số khía cạnh
liên quan đến phương pháp truyền đạo của Đức Phật. Mặc dù cách ngày
nay gần 2.600 năm, nhưng những phương pháp mà Đức Phật đã dùng so với
những phương pháp giáo dục thời nay cũng không có nhiều khác biệt. Tìm
hiểu và chắt lọc những tinh hoa trong “84 ngàn pháp môn” mà Đức Phật đã
sử dụng rồi vận dụng vào sự nghiệp giáo dục ngày nay, thiết nghĩ
là điều chúng ta nên/cần làm.
Tài liệu tham khảo
[1] Đoàn Trung Còn: Phật học từ điển,
Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2009.
[2] Thích Chơn Thiện: Tăng già thời Đức
Phật, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2000.
[3] Nàrada Thera: Đức Phật và Phật pháp,
Nxb TP Hồ Chí Minh, 1999.
[4] HT Thích Trí Quảng: Phật giáo nhập
thế và phát triển, Nxb Tôn giáo, PL 2552-2008.
[5] Pháp sư Thánh Nghiêm: Niêm
hoa vi tiếu, Công ty sách Thời đại & Nxb Hồng Đức, 2014.
[6] Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ban Hoằng pháp Trung ương: Phật học cơ bản (Chương trình hàm
thụ), Tập 1, Nxb Hồng Đức, 2013.
[7] John Dewey: Dân chủ và giáo dục
(Phạm Anh Tuấn dịch), Nxb Tri thức, 2008.
[8] Trần Hữu Danh: Sự tích Đức Phật
Thích ca, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2011.
[9] Cư sĩ Nguyên Giác: Thiền Đốn ngộ và
Những lời dạy từ các Thiền sư Việt Nam xưa, Nxb Hồng Đức, 2014.
[10] Albert Einstein: Thế giới như tôi thấy,
Nxb Tri thức, 2007.
(Hà Nội,
ngày 25-07-2015)
[1]
- Theo Đoàn Trung Còn: “Chúng-sanh là những loài có sanh ra”,
“Chúng-sanh là vì chưa tự tỉnh, nên mãi luân chuyển trong sáu nẻo:
Thiên (tiên), A-tu-la (thần), Nhơn (nhân, người), Địa ngục, Ngạ-quỉ (ma
đói), Súc sanh” (Phật học từ điển,
Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2009, tr. 319-320).
[2]
- Đây là quả Thánh thứ tư, người đắc quả này không còn lẫm lỗi,
thoát khỏi phiền não, đạt tới sức mạnh huyền vi, tư tưởng tự do, tâm
trí tự tại, biết hết tất cả… (Theo Đoàn Trung Còn: Phật học từ điển, Nxb Tổng hợp TP
Hồ Chí Minh, 2009, tr. 98-99).
[3] -
Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ban hoằng pháp Trung ương: Phật học cơ bản (Chương trình Phật học
hàm thụ), Tập 1, Nxb Hồng Đức, 2013, tr. 91.
[4] -
Xin xem John Dewey: Dân chủ và Giáo
dục (Phạm Tuấn Anh dịch), Nxb Tri thức, 2008.
[5] -
Nàrada Thera: Đức Phật và Phật pháp
(Phạm Kim Khánh dịch), Nxb TP Hồ Chí Minh, 1999, tr. 262.
[6] -
“Vô lậu”: Một quan niệm của Phật giáo là không có các mối phiền
não; đây là những bậc thánh, đã dứt mọi phiền não, thoát ra ngoài
vòng luân hồi.
[7]
- HT Thích Trí Quảng: Phật giáo
nhập thế và phát triển, Nxb Tôn giáo, LP 2552-2008, tr. 86-87.
[8] -
Dẫn theo PS Thánh Nghiêm: Niêm hoa vi
tiếu, Công ty sách Thời đại & Nxb Hồng Đức, 2014, tr. 208-209.
[9] -
Cư sĩ Nguyên Giác: Thiền Đốn ngộ và
Những lời dạy từ Thiền sư Việt Nam xưa, Nxb Hồng Đức, 2014,
tr. 5.
[10] -
Dẫn theo Trần Hữu Danh: Sự thích
Đức Phật Thích Ca, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2011, tr. 83-84.
[11]
- HT Thích Trí Quảng: Phật giáo
nhập thế và phát triển, Nxb Tôn giáo, LP 2552-2008, tr. 85.
[12] -
Albert Einstein: Thế giới như tôi thấy,
Nxb Tri Thức, 2007, tr. 49.
[13] -
Gia Tuệ: “Lịch sử Đức Phật thích ca mâu ni” trong sách Phật học cơ bản (chương trình Phật học
hàm thụ), tập 1, Nxb Hồng Đức, 2013, tr. 55.
[14] -
Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ban hoằng pháp Trung ương: Phật học cơ bản (Chương trình Phật học
hàm thụ), Tập 1, Nxb Hồng Đức, 2013, tr. 29.
Nhận xét
Đăng nhận xét